
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi phát biểu khai mạc Hội thảo
Hội thảo là cơ hội để trao đổi và chia sẻ từ đại diện các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, các đối tác phát triển, các chuyên gia, nhà nghiên cứu về công tác quản lý nợ công hiện nay và kỳ vọng về cải cách thể chế trong quản lý nợ công trong thời gian tới để tiệm cận với thông lệ khu vực và quốc tế.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết, thực hiện các chủ trương định hướng nêu tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; Nghị quyết 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 460/QĐ-TTg ngày 14/4/2022 phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030. Chiến lược nêu rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng, giải pháp quản lý nợ, trong đó có nội dung đáp ứng nhu cầu vay với chi phí, rủi ro phù hợp, đảm bảo kế hoạch trả nợ, kiểm soát các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia.
Để triển khai thực hiện, Bộ Tài chính đã đề xuất Hỗ trợ kỹ thuật của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới về tổ chức thể chế quản lý nợ công. Trong thời gian làm việc, đoàn chuyên gia đã trao đổi trực tiếp với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đơn vị được giao thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến quản lý nợ trong Bộ Tài chính, các đối tác tham gia thị trường vốn. Tiếp theo các buổi làm việc trực tiếp, nhóm chuyên gia phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo để chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về các mô hình thể chế quản lý nợ công, giúp các cơ quan có thêm thông tin có cái nhìn tổng thể, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ và công tác phối hợp trong quản lý nợ trên thế giới và bối cảnh Việt Nam.


Ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam đánh giá cao những kết quả trong công tác quản lý nợ công của Việt Nam
Thiết lập mô hình DMO nhằm tập trung các chức năng quản lý nợ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc tổ chức mô hình cơ quan quản lý nợ hết sức đa dạng, có nhiều cách tiếp cận, phương thức quản lý nợ khác nhau. Nhiều quốc gia đã lựa chọn thiết lập cơ quan quản lý nợ công (DMO) để tập trung các chức năng quản lý nợ nhằm đạt đến trình độ chuyên nghiệp hóa cao. Các quốc gia OECD chọn thiết lập một cơ quan quản lý nợ độc lập như: Áo, Phần Lan, Ai-len, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Đức, Hungary và Anh; một số quốc gia khác thiết lập văn phòng DMO riêng biệt nhưng hoạt động dưới Bộ Tài chính như Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Hà Lan, New Zealand, Ba Lan và Mỹ. Các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á cũng đã thiết lập văn phòng DMO riêng biệt như Thái Lan, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a. Mục tiêu chung trong việc hình thành DMO là đảm bảo thực hiện nhất quán, đồng bộ, kiểm soát toàn diện rủi ro phát sinh từ việc vay nợ, thực hiện các chính sách quản lý nợ, kế hoạch vay trả nợ của Chính phủ.


Bà Stefanie Stallneister - Giám đốc điều hành Danh mục Dự án của WB tại Việt Nam khẳng định, WB sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu quản lý nợ công
Đối với Việt Nam, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi cho biết, hiện nay chính sách quản lý nợ công gắn với chính sách tài khóa và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách quản lý nợ công mới chủ yếu tập trung vào huy động các nguồn vay ưu đãi, nghiệp vụ theo thông lệ quốc tế chưa thực hiện đầy đủ như: giám sát và đánh giá tất cả các khoản vay và giao dịch nợ để đảm bảo phù hợp với các thông số rủi ro đề ra trong chiến lược nợ; giám sát rủi ro toàn bộ danh mục nợ chính phủ, kết nối giữa chính sách quản lý ngân quỹ và quản lý nợ công, cơ sở dữ liệu chia sẻ chung về nợ công…
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước thu nhập trung bình cao, xếp hạng tín nhiệm quốc gia lên mức đầu tư. Trong bối cảnh vị thế, vai trò kinh tế của Việt Nam có nhiều thay đổi tích cực, khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi sẽ giảm đi, danh mục nợ sẽ phát sinh thêm nhiều loại rủi ro, đòi hỏi có sự quản lý đồng bộ, thống nhất, chuyên nghiệp hóa để tăng cường hiệu quả hoạch định chính sách và đạt được cơ cấu chi phí - rủi ro nợ công phù hợp với mục tiêu quản lý đặt ra.
Theo Thứ trưởng, việc nghiên cứu phát triển mô hình DMO với đầy đủ chức năng theo thông lệ quốc tế phù hợp với trình độ phát triển nhu cầu quản lý của Việt Nam trong từng giai đoạn là cần thiết. Song song với cải cách thể chế, sẽ tiếp tục hoàn thiện công cụ quản lý nợ, cơ chế kiểm soát rủi ro đảm bảo dư địa tài khóa và chính sách để phấn đấu mục tiêu nêu trên.
“Thông qua Hội thảo này, chúng tôi mong muốn các chuyên gia quốc tế chia sẻ kinh nghiệm về thể chế quản lý nợ công và đưa ra khuyến nghị lộ trình cải cách phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thể chế quản lý của Việt Nam”, Thứ trưởng kỳ vọng.
Quản lý nợ tập trung và hình thành cơ quan quản lý nợ chuyên trách là thông lệ quốc tế tốt
Tại Hội thảo, các chuyên gia của IMF và WB đã có các bài trình bày hữu ích về quản lý nợ công. Các chuyên gia cho rằng, dù ở bất kỳ thể chế nào, nền kinh tế nào, thông lệ tốt của quốc tế là tập hợp các chức năng quản lý nợ về một nơi và giao cho một cơ quan quản lý nợ chuyên trách. Làm thế nào để vận dụng được các kinh nghiệm đó để phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.


Ông Mike Williams, chuyên gia độc lập của IMF trình bày tại Hội thảo
Ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam nhận định, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong công tác quản lý nợ công. Tuy nhiên, cơ chế quản lý nợ của Việt Nam vẫn mang tính phân tán. Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) là cơ quan đầu mối phụ trách về quản lý nợ nước ngoài. Nợ trong nước lại được quản lý bởi một loạt các đơn vị khác như Kho bạc Nhà nước, Vụ Tài chính ngân hàng, Vụ Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước cũng có vai trò nhất định trong quản lý, giám sát nợ nước ngoài.
“Sự sắp xếp mang tính phân tán này dẫn đến thông tin không tập hợp, thiếu nhất quán nên ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Do đó, cần thống nhất các chức năng quản lý nợ như trong chiến lược nợ công đã đề ra”- đại diện IMF nêu quan điểm.
Đồng quan điểm, bà Stefanie Stallneister - Giám đốc điều hành Danh mục Dự án của WB tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực về phát triển kinh tế và đã tiến lên bậc cao hơn về thu nhập. Trong thời gian tới, Việt Nam cũng cần nhiều vốn hơn để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra (là nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030; trung hòa các-bon vào năm 2050;…) nhưng lại phải tiếp cận với vốn ưu đãi giảm vì đã trở thành nước có thu nhập trung bình.
Theo bà Stefanie Stallneister, các quốc gia như Indonesia, Thái Lan đã thành lập văn phòng cơ quan quản lý nợ công độc lập, cùng với các cơ quan chuyên môn để phát huy sức mạnh trong công tác quản lý nợ. Tại Việt Nam, để quản lý nợ hiệu quả, Bộ Tài chính cũng đã có kế hoạch thành lập văn phòng quản lý nợ vào năm 2030. Đây là thách thức đòi hỏi phải có cải cách thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý về nội dung này.
“Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ Việt Nam, Bộ Tài chính về mặt kỹ thuật để đạt được mục tiêu đề ra. Tăng cường quản lý rủi ro trong quản lý nợ sẽ giúp Việt Nam chống lại những cú sốc từ bên ngoài.”- đại diện WB cam kết.
Thiết lập DMO mới chỉ là bước khởi đầu
Cũng chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về cải cách quản lý nợ công, ông Mike Williams, chuyên gia độc lập của IMF cho biết, có 6 yếu tố cấu thành nên một thông lệ quản lý nợ công tốt, gồm: Mục tiêu quản lý nợ và sự phối hợp; minh bạch và trách nhiệm giải trình; khuôn khổ thể chế; chiến lược quản lý nợ; khuôn khổ quản lý rủi ro; phát triển, duy trì một thị trường hiệu quả cho trái phiếu Chính phủ.
Đồng thời nhấn mạnh, trong bối cảnh nào, việc tập trung các chức năng quản lý nợ về một nơi và hình thành cơ quan quản lý nợ chuyên trách là xu hướng, thông lệ tốt của thế giới. Cơ quan này có thể độc lập, thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc Ngân hàng Nhà nước. Thiết lập mô hình cơ quan quản lý nợ (DMO) mới chỉ là bước khởi đầu và không phải tất cả các DMO đều thành công ngay - ít nhất trong giai đoạn đầu.


Toàn cảnh Hội thảo
Bàn về câu chuyện có nên tích hợp hai chức năng quản lý ngân quỹ và quản lý nợ với nhau hay không, ông Williams cho biết, không phải lúc nào cũng cần sáp nhập hay tích hợp hai chức năng này với nhau. Thực tế, nhiều nước đã tích hợp 2 chức năng quản lý ngân quỹ và quản lý nợ là một. Khi tích hợp về cơ bản, cùng một cơ quan sẽ phát hành các công cụ nợ và quản lý ngân quỹ và xử lý nghiệp vụ liên quan. Kể cả khi tách thành hai cơ quan độc lập với hai chức năng riêng biệt nhưng một số quốc gia thiết lập ủy ban hoặc ban điều phối chung giữa quản lý nợ và quản lý ngân quỹ để đảm bảo hiệu quả. “Theo tôi, Việt Nam chưa nhất thiết phải sát nhập hai chức năng này làm một”- ông Williams nêu quan điểm.
Trong khi đó, ông Lars Jessen, chuyên gia trưởng về nợ, Ban MTI, WB cho rằng trọng tâm của quản lý nợ công là cơ cấu nợ và giá trị chịu rủi ro chứ không phải quy mô nợ. Chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý nợ có mục tiêu, công cụ khác nhau, điều quan trọng là phải tách biệt các vai trò và trách nhiệm của các bên nhưng vẫn phải đảm bảo sự phối hợp với nhau. Bền vững tài khóa và nợ nhìn chung được quyết định bởi chính sách tài khóa. Quản lý nợ tập trung vào cơ cấu nợ. Cơ quan quản lý nợ quyết định khi nào vay, vay bằng gì nhưng không quyết định vay bao nhiêu. Các chỉ tiêu chiến lược về quy mô nợ không phải những chỉ tiêu quản lý nợ có ý nghĩa vì cơ quan quản lý nợ không chịu trách nhiệm với những chỉ tiêu đó. Việc tách biệt giữa quản lý nợ với chính sách tài khóa, tiền tệ tạo điều kiện xác lập mục tiêu rõ ràng cho từng lĩnh vực. Chiến lược quản lý nợ cần nhất quán với các chính sách kinh tế vĩ mô khác….
HP