Tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước luôn xác định: nguồn nhân lực dồi dào có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh những tiến bộ về khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thực tế cho thấy trong thời đại ngày nay, con người được coi là một 'tài nguyên đặc biệt', một nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế.
Bởi vậy, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trên các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, nguồn lao động luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay. Truyền thống dân tộc Việt Nam cũng từng khẳng định 'Hiền tài là nguyên khí quốc gia". Chúng ta dễ nhận thấy rằng tiền bạc tiêu xài mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ qua. Chỉ có trí tuệ con người là tồn tại mãi mãi và ngày càng phát triển, mang lại sự văn minh, tiến bộ cho nhân loại. Bởi chúng ta biết rằng mọi của cải vật chất đều được làm nên từ bàn tay và trí óc của con người.
![]() |
Robot hàn tự động nhập khẩu từ Nhật |
Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ khác thì con người cũng là tác nhân gây ra nhiều thiệt hại cho xã hội và nhân loại.
Việt Nam chúng ta là đất nước có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước hiện lên đến gần 90 triệu người (tính đến năm 2012 là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực). Trong đó số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm tỉ lệ khá cao. Rõ ràng Việt Nam đang có thế mạnh về nguồn lực lao động nhưng tại sao chúng ta vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy kinh tế đi lên, tỷ lệ người nghèo và thu nhập thấp vẫn còn là con số đáng kể? Với nguồn lực lao động phổ thông hiện nay chỉ hơn 5 triệu người, chiếm khoảng 6% dân số cả nước, có thể nói lực lượng lao động cơ bắp của nước ta còn quá ít. Đã vậy, số công nhân có trình độ văn hóa, tay nghề kỹ thuật cao lại chiếm tỷ lệ thấp nên đa số công nhân không đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về lao động ở các doanh nghiệp. Thực tế là doanh nghiệp không thiếu người, nhưng lại thiếu những công nhân có tay nghề, những cán bộ có năng lực và trình độ chuyên môn nhằm đảm bảo những công đoạn kỹ thuật, những khâu quản lý điều hành trong dây chuyền sản xuất. Từ đó, tất yếu kéo theo hệ quả đáng buồn là đồng lương công nhân thấp, đời sống không được đảm bảo, địa vị xã hội cũng rất khiêm tốn. Với tình hình đó, nguồn lực công nhân chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vai trò, giá trị của lao động trí thức
Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, đồng thời từng bước chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học và công nghệ. Vì thế đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực hùng hậu có trình độ cao, đủ khả năng làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại với máy móc, thiết bị tiên tiến và áp lực cạnh tranh cao. Đặc biệt, với một số ngành đặc thù như năng lượng nguyên tử, công nghệ thông tin… lại càng đòi hỏi nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế. Bên cạnh đó, một số ngành mũi nhọn và dễ biến động như ngân hàng - tài chính, chứng khoán, du lịch… cũng yêu cầu một đội ngũ có đủ khả năng thích ứng với mọi biến động của thị trường trong nước và thế giới.
![]() |
Có thể nói, bất cứ ở lĩnh vực nào, nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ… đều đòi hỏi nguồn lao động có trình độ cao, giàu sáng tạo, có tầm nhìn cũng như đức tính kiên trì, chịu khó. Những năm gần đây, tuy đội ngũ trí thức tăng nhanh, trong đó những người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chiếm tỉ lệ đáng kể nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Bên cạnh đó, số sinh viên tốt nghiệp ra trường hằng năm cũng rất lớn nhưng đa phần đều không có việc làm vì cung vượt cầu. Theo thống kê, hiện có hơn 63% sinh viên ra trường không tìm được việc làm, số có việc làm thì nhiều người làm việc không đúng ngành nghể đã học. Thậm chí một số đơn vị có nhu cầu tuyển dụng nhân sự khi nhận người vào làm việc phải mất 1 - 2 năm để đào tạo lại. Qua đó cho thấy nguồn lao động đã qua đào tạo còn nhiều bất cập so với yêu cầu của thị trường lao động cũng như nhu cầu của doanh nghiệp. Mặt khác, do tình hình kinh tế biến động cũng như mức sống ngày càng cao, kéo theo nhu cầu ngày càng cao của con người nên một số thành phần chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm tiền cho nhanh, cho nhiều chứ không cần nghĩ đến việc trau dồi chuyên môn, nâng cao tay nghề và gắn bó lâu dài với doanh nghiệp để đảm bảo cuộc sống ổn định. Và chính điều này đã tạo ra một khoảng cách giữa người lao động và người sử dụng lao động, từ đó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời thiếu sự cạnh tranh và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Nếu như chúng ta có đội ngũ lao động trí thức giỏi cùng lực lượng công nhân kỹ thuật yêu nghề, năng động sáng tạo thì sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, đồng thời giảm bớt được vật tư, chi phí,… Ngược lại, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một điểm yếu cản trở nền kinh tế phát triển.
![]() |
Dây chuyền sản xuất ô tô |
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: một yêu cầu bức thiết
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế, mọi lĩnh vực hoạt động đều đòi hỏi nguồn nhân lực phải đạt chuẩn để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, đặc biệt là việc sản xuất những hàng hóa sản phẩm cung ứng cho thị trường nước ngoài, nhất là châu Âu. Chính vì thế, chúng ta cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức, nghiên cứu phát triển mọi ngành nghề và lĩnh vực mới có thể hòa nhập được nền kinh tế tri thức. Ở đây, nói lên vai trò quan trọng của hệ thống giáo dục - đào tạo quốc gia. Trong đó, các trường từ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phải nỗ lực đổi mới chương trình đào tạo cũng như phương pháp giảng dạy theo phương châm “Học đi đôi với hành” nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu của mọi ngành nghề. Và để đáp ứng tốt yêu cầu này, cần phải đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo chứ không phải chỉ đổi mới hệ đào tạo trung cấp chuyên nghiệp.
![]() |
Phòng xét nghiệm |
- Chương trình đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động. Đặc biệt, tâm lý cần phải vào đại học cũng như một số người quan niệm rằng nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chỉ bao gồm những người có bằng tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân đã dẫn đến hệ quả “thừa thầy, thiếu thợ”, cụ thể là thiếu công nhân lành nghề, thiếu nhân viên kỹ thuật bậc cao.
- Chương trình đào tạo còn thiếu sự kết hợp giữa các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu lao động, mặt khác không phổ cập tay nghề kiến thức thực tế nên khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn còn lớn, làm giảm khả năng lao động sáng tạo của người lao động. Một số sinh viên ra trường hiện nay tuy được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn nhưng khi tiếp cận công việc vẫn còn lúng túng, chưa bắt kịp yêu cầu thực tế nên các đơn vị sử dụng lao động phải mất thời gian đào tạo lại.
- Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng đẩy mạnh hợp tác với các viện nghiên cứu, cũng như được bồi dưỡng và nâng cao trình độ, được thường xuyên tiếp cận thực tế, gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất kinh doanh.
- Tăng cường đầu tư cho các cơ sở đào tạo; đồng thời giữa nhà trường và doanh nghiệp cần có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ trong lĩnh vực đào tạo theo hướng đảm bảo nhu cầu và tính chủ động của doanh nghiệp sử dụng lao động.
Nhìn chung, đối với bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, sự nghiệp giáo dục con người, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là hết sức quan trọng. Với Việt Nam nói riêng, giáo dục - đào tạo được xem là “quốc sách hàng đầu”. Nếu chúng ta thực hiện tốt, sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của toàn xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.